Bài viết “Sử dụng phế phụ phẩm thủy sản trên thế giới và nước ta” trên Hoachatxanh.com đã phản ánh rõ thực trạng thiếu thông tin và sự chú ý trong lĩnh vực này tại Việt Nam. Từ đó, Cục Chất lượng Chế biến và Phát triển thị trường đã tiến hành khảo sát ngư nghiệp tôm nước lợ và cá tra, mang lại những kết quả quan trọng. Hiện trạng thu gom, bảo quản, vận chuyển và chế biến phế phụ phẩm tôm ở Việt Nam hiện tại như sau:
Thu gom, bảo quản và vận chuyển phế phẩm
Đánh giá cho thấy phế phụ phẩm tôm, bao gồm đầu và vỏ tôm, có sự ổn định tương đối qua các năm. Số liệu năm 2021 cho biết có 511.711 tấn phế phẩm, trong đó ĐBSCL chiếm 459.467 tấn (89,8%), Đông Nam Bộ chiếm 8.980 tấn (1,8%), và các vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và miền Bắc mỗi vùng có 21.604 tấn (4,2%). Giá bán phế phẩm tươi năm 2020 là 1,61 triệu đồng/tấn, năm 2021 là 1,471 triệu đồng/tấn, và trong năm 2023 là từ 2-3 triệu đồng/tấn.
Các cơ sở thu gom và bảo quản phế phụ phẩm tôm còn tồn tại tình trạng nhỏ lẻ và phân tán. Nhiều cơ sở chỉ hoạt động trên danh nghĩa, phế phẩm tôm dễ xuống cấp chất lượng và chi phí bảo quản cao. Đa phần các cơ sở thu gom sẽ chuyển thẳng phế phẩm từ nhà máy chế biến đến các điểm tiêu thụ như nhà máy chế biến thức ăn, cơ sở sấy khô, hoặc trại chăn nuôi. Vận chuyển phế phẩm tôm phụ thuộc vào khoảng cách và sản lượng, sử dụng các phương tiện như ô tô, xe máy, hoặc xe đạp.
Quá trình sơ chế phế phẩm tôm bao gồm phơi khô tự nhiên, sấy khô để bảo quản dài hạn, ủ muối hoặc ủ chua để phối trộn thức ăn chăn nuôi, và xay nhỏ trực tiếp vào thức ăn chăn nuôi hàng ngày. Khoảng 52% sản lượng phế phẩm được bảo quản bằng kho lạnh hoặc ướp đá.
Quá trình chế biến phế phẩm tôm
Chế biến phế phẩm tôm trong các nhà máy công nghiệp hiện nay vẫn còn rất hạn chế. Năm 2019 chỉ chiếm 38,7% tổng sản lượng, năm 2020 là 38,2%, và năm 2021 là 23,4%. Khoảng 62-76% phế phẩm tôm chưa được chế biến công nghiệp chuyên nghiệp.
Cả nước hiện có 4 cơ sở quy mô công nghiệp sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng cao từ vỏ và đầu tôm, tất cả đều tập trung ở ĐBSCL. Các sản phẩm chế biến chủ yếu bao gồm Chitin, Dịch tôm thủy phân, Chitosan, Bột tôm, Dầu gạch tôm và Bột đầu vỏ tôm. Năm 2021, các cơ sở này tiêu thụ 142.821 tấn phế phẩm tôm, quá thấp so với tổng sản lượng 511.417 tấn.
Hiện tại, phế phẩm tôm đã được tận dụng hoàn toàn, không thải bỏ ra môi trường. Ở miền Bắc và Duyên hải Nam Trung Bộ, phế phẩm tôm chủ yếu được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi hoặc sơ chế để sử dụng dài hạn. Ở Đông Nam Bộ và ĐBSCL, phế phẩm tôm được chế biến thức ăn chăn nuôi và bột tôm với quy mô vừa và nhỏ. Ở ĐBSCL còn có 4 cơ sở quy mô công nghiệp chế biến sản phẩm từ Chitin và Chitosan.
Sản phẩm Chitin và Dịch tôm thủy phân có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm lần lượt là 4,3% và 5,7%. Điều này cho thấy nhu cầu về 2 sản phẩm này rất cao.
Một số doanh nghiệp đang quan tâm đầu tư phát triển để tạo ra các sản phẩm giá trị cao hơn như Chitosan và Chitin sử dụng trong ngành y tế, dược phẩm, mỹ phẩm, nông nghiệp, công nghiệp sợi và phân bón hữu cơ cao cấp. Công ty CP Việt Nam Food (VNF) và Công ty TNHH MTV Sản xuất TM-DV Đại Phát là hai ví dụ nổi bật. VNF có hai nhà máy tại Cà Mau và Hậu Giang, chuyên chế biến đầu vỏ tôm tạo ra Chitin, Chitosan, Bột muối tôm và các sản phẩm khác. Đại Phát đã sản xuất nước mắm, mắm tôm, dịch mực, bột tôm và các sản phẩm dẫn dụ thức ăn cho gia súc.
Qua điều tra, sản phẩm Chitin và Dịch tôm thủy phân tăng trưởng trung bình hàng năm là 4,3% và 5,7%, chứng tỏ tiềm năng tăng trưởng và nhu cầu cho hai sản phẩm này rất lớn.
Lao động và công nghệ
Khoảng 7% lao động ngành phế phụ phẩm tôm làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển, cho thấy sự quan tâm của doanh nghiệp với việc nghiên cứu các sản phẩm mới. Trình độ lao động trung cấp trở lên chiếm 29% và công nhân kỹ thuật có bằng cấp chiếm 11%, trong khi lao động phổ thông vẫn chiếm 59%. Điều này cho thấy ngành công nghiệp này vẫn chủ yếu dựa vào lao động thủ công.
Theo điều tra, 50% các doanh nghiệp quy mô công nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, 50% còn lại có công nghệ tiên tiến. Việc chuyển giao công nghệ còn hạn chế, với chỉ 1 doanh nghiệp (25%) có đầu tư đồng bộ công nghệ chế biến với giá trị lớn 6.500.000.000 đồng. Các thiết bị và công nghệ được đầu tư từ năm 2019 trở lại đây, chứng tỏ doanh nghiệp đã quan tâm đến lĩnh vực này.
Sử dụng sản phẩm chế biến
Phế phẩm tôm được sử dụng chủ yếu trong ngành chăn nuôi (chiếm 69,7%), công nghiệp thực phẩm (15,3%), y dược (1,7%) và các ngành khác (13,3%). Mức độ chế biến tạo ra các sản phẩm giá trị gia tăng cao còn thấp.
Dịch tôm thủy phân có giá xuất khẩu tăng từ 18 triệu đồng/tấn năm 2019 lên 20 triệu đồng/tấn năm 2021. Sản phẩm Chitin có giá xuất khẩu năm 2021 là 90 triệu đồng/kg, chênh lệch 28,6% so với giá nội địa. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Đài Loan, Anh (Dịch thủy phân tôm) và Trung Quốc (Chitin).
Phế phẩm tôm sau khi chế biến nếu sử dụng làm thức ăn chăn nuôi có giá trị ước tính khoảng 2.070 tỷ đồng. Nếu 70% làm thức ăn chăn nuôi và 30% chế biến sản phẩm giá trị cao hơn, tổng giá trị đạt khoảng 3.940 tỷ đồng.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu đầu tư và liên kết với công ty nước ngoài để sản xuất các sản phẩm tinh chế từ phế phẩm tôm, tuy nhiên số liệu thống kê cụ thể còn thiếu.
Cuối cùng, điều tra cho thấy việc chế biến phế phẩm tôm ở Việt Nam hiện chưa đạt hiệu quả cao, cần đẩy mạnh nghiên cứu, đầu tư và phát triển để khai thác hết tiềm năng.
Add comment