BẾN TRE Tại Phân Viện Hải sản Miền Nam, một khóa tập huấn kĩ thuật tiên tiến về ương, dưỡng và nuôi cá bông lau trong ao đất đã diễn ra, thu hút 55 hộ dân và cán bộ từ xã Thạnh Phước, huyện Bình Đại.
Cá bông lau, một loài đặc sản nổi tiếng ở ĐBSCL, thường được khai thác giống bằng nghề đẩy te và đăng đáy. Tại Bến Tre, ngư dân tập trung khai thác cá giống tại các cửa sông như cửa Đại, cửa Hàm Luông, và cửa Cổ Chiên.
Mặc dù nghề nuôi cá bông lau thương phẩm đã phổ biến, tuy nhiên hiệu quả và tính ổn định vẫn còn hạn chế. Tỷ lệ sống trong giai đoạn ương giống chỉ dao động từ 10-60%, nguyên nhân do thiếu mô hình và quy trình nuôi cụ thể. Nông dân thường phải dựa vào kinh nghiệm nuôi các loài cá khác.
Để khắc phục những khó khăn trên, từ tháng 6/2022 đến tháng 5/2024, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến Tre đã phối hợp với Phân viện nghiên cứu Hải sản phía Nam triển khai đề tài “Nghiên cứu quy trình ương dưỡng và nuôi cá bông lau trong ao đất”. Đề tài được thực hiện tại ấp Tân Long, xã Phước Thạnh, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.
Theo TS. Nguyễn Phước Triệu, Chủ nhiệm đề tài, số lượng cá bông lau giống khai thác được từ khảo sát đạt 461 con/ngày đối với mỗi tàu lưới đáy và 421 con/ngày đối với mỗi tàu lưới te. Mùa vụ khai thác kéo dài từ tháng 9 đến 12 hàng năm. Với phương pháp truyền thống, nghề nuôi cá bông lau kéo dài từ 16,8-18,5 tháng, tỷ lệ sống 36,1-63,7%, hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) là 2,47-2,52, năng suất đạt 7,8-12,9 tấn/ha. Các vùng nuôi ở huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú là những nơi rất phù hợp để nuôi cá bông lau.
Nghiên cứu cho thấy, nuôi cá bông lau cần chia thành hai giai đoạn để đạt hiệu quả tối ưu: giai đoạn ương và thuần dưỡng, và giai đoạn thương phẩm, với mỗi giai đoạn có quy trình kỹ thuật khác nhau.
Giai đoạn ương và thuần dưỡng kéo dài 35 ngày, kích cỡ cá đạt từ 8-10cm/con, mật độ 20 con/m2 là phù hợp nhất, tỷ lệ sống đạt 91%, FCR là 1,2.
Giai đoạn nuôi thương phẩm kéo dài 12 tháng, với kích cỡ thu hoạch từ 1-1,2kg/con, năng suất 16,7 tấn/ha. Mật độ nuôi thương phẩm tối ưu là 1-2 con/m2: mật độ 1 con/m2 tỷ lệ sống 89,7%, FCR 1,96; mật độ 2 con/m2 tỷ lệ sống 84,7%, FCR 2,02; mật độ 3 con/m2 tỷ lệ sống 73,7%, FCR 2,15.
Theo TS. Nguyễn Phước Triệu, mật độ 2 con/m2 cho hiệu quả kinh tế cao nhất với tỷ suất lợi nhuận đạt 14,6%, cao gấp 3,17 lần so với mật độ 3 con/m2 và 1,13 lần so với mật độ 1 con/m2.
Đề tài đã hoàn thiện bộ tài liệu tập huấn quy trình kỹ thuật ương và thuần dưỡng, đồng thời tổ chức tập huấn cho 55 hộ nuôi trồng thủy sản và cán bộ tại xã Thạnh Phước, huyện Bình Đại. Ngoài ra, sản phẩm cá bông lau một nắng và cá bông lau tươi cũng đã được chứng nhận OCOP 3 sao.
Bà Trương Trịnh Trường Vinh, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bến Tre, cho biết cá bông lau tự nhiên rất được ưa chuộng với kích cỡ có thể lên đến 15kg/con, thịt thơm ngon và giá trị dinh dưỡng cao, giá bán từ 180-350 nghìn đồng/kg. Tuy nhiên, do nguồn giống chủ yếu khai thác từ tự nhiên nên nghề nuôi cá bông lau chưa thật sự phát triển mạnh.
Một số vấn đề chủ yếu trong nghề nuôi cá bông lau là nguồn cung giống nhân tạo còn khan hiếm, với con giống chủ yếu khai thác từ tự nhiên nên tỷ lệ hao hụt cao do tính chất hoang dã của cá.
Cá bông lau là một loài có tiềm năng lớn trong nuôi nước lợ, đặc biệt trong bối cảnh xâm nhập mặn ngày càng tăng. Hiện tại, cá bông lau được nuôi phổ biến tại Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh, Bến Tre… Đề tài nghiên cứu không chỉ xây dựng và hoàn thiện quy trình nuôi mà còn giúp nông dân đa dạng hóa đối tượng nuôi, tăng thu nhập trên cùng diện tích đất.
Add comment